Tìm hiểu chùa Thánh Duyên – Huế

Chia sẻ ngay

Chùa Thánh Duyên toạ lạc ở Thuý Vân sơn, ngày trước thuộc phường Đông Am, tổng Diêm Trường, huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên; nay là làng Hiền An, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cùng với Linh Mụ và Diệu Đế, Thánh Duyên là một trong 3 ngôi quốc tự của xứ Thần kinh còn tồn tại cho đến ngày nay.

Chùa Thánh Duyên

Chùa Thánh Duyên nằm cách kinh thành Huế khoảng chừng 60 km đường bộ về phía Đông Nam. Ngày xưa, để đến được chùa, du khách có thể đi bằng hai con đường: từ thành phố Huế đi về Thuận An, rồi từ Thuận An đi theo đường ven biển để về tới chùa; hoặc có thể đi từ thành phố theo đường quốc lộ về tới Đá Bạc, rồi từ đây lên đò máy sang phá Cầu Hai để đến núi Thuý Vân. Ngày nay, có cầu Trường Hà nối hai xã Phú Đa và Vinh Thanh, nơi tiếp giáp với thị trấn Phú Bài chừng 10 km qua đuờng quốc lộ dẫn vào thành phố, nên việc đi lại đã trở nên thuận tiện hơn rất nhiều.

Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia – một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi.

Tấm bia thứ nhất dựng trong chùa đề hai chữ “Ngự chế”. Nội dung gồm bốn bài thơ ca ngợi cảnh đẹp chùa Thánh Duyên, gác Đại Từ, tháp Điều Ngự , núi Thuý Hoa. Xen kẽ những bài thơ là các đoạn văn chú thích cho rõ nghĩa. Theo lạc khoản đề ở cuối thì đây là bài văn bia của vua Minh Mệnh được khắc vào một ngày tốt tháng ba năm Đinh Dậu niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 (1837). Bia cao 1,72m, rộng 0,84m, dày 0,25. Trán bia chạm lưỡng long triều nguyệt, riềm bia chạm hình hoa lá.

Tấm bia thứ hai có tên là “Vân Sơn thắng tích” được dựng trong nhà bia dưới chân núi Thúy Vân nằm ở bên phía tay trái trên đường vào chùa. Tấm bia này có chiều cao là 1,38m, dày 0,8m, lòng bia khắc chín dòng chữ và một dòng lạc khoản “Thiệu Trị tam niên thất nguyệt cát nhật, cung tuyên ngự chế thi nhất thủ” (cung kính khắc một bài thơ do vua làm vào ngày tốt tháng bảy nhuận năm thứ ba đời Thiệu Trị (1843). Thiệu Trị vốn rất giỏi thơ văn. Tác phẩm ”Ngư Đề Đồ Hội Thi Tập” là một trong hàng loạt tác phẩm của ông và bài ”Vân Sơn thắng tích” là một trong 20 bài thơ mang tên là “Thần Kinh nhị thập cảnh” nằm trong tác phẩm này.

Lịch sử Chùa Thánh Duyên

Là quốc tự nên sau khi được trùng tu dưới triều Minh Mạng, nhiều vị cao tăng đã được sắc cử làm tăng cang và trụ trì ở đây để lo Phật sự như Hòa thượng Liễu Đạo Chí Tâm, Hòa thượng Tánh Khoát Huệ Cảnh, Tánh Thông Nhất Trí, Hòa thượng Vĩnh Thừa, Hòa thượng Giác Nhiên, Hòa thượng Mật Hiển. Hiện nay Hòa thượng Hải Ấn giữ nhiệm vụ làm trụ trì chùa nhưng người đang sống và coi sóc công việc của ngôi tự lại là Đại đức Thích Minh Chính.

Sau một thời gian dài bị đồi phế, Thánh Duyên đã được Nhà nước và Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế trùng tu năm 2003 để trả lại vẻ đẹp vốn có cho ngôi chùa. Nhiều văn vật, pháp tự, pháp khí có giá trị như chuông đồng, bia đá và các bài thơ của các vị vua triều Nguyễn chạm trên vách đố bằng gỗ theo lối nhất thi nhất họa vẫn được bảo tồn và lưu giữ cẩn thận, đặc biệt là những pho tượng bằng tre hay bằng đồng rất có giá trị.

Trong số gần 70 pho tượng tại chùa, đáng chú ý hơn cả là bộ tượng Thập Bát La Hán bằng tre thếp vàng và bộ tượng Thập Bát La Hán bằng đồng xưa và lớn nhất Việt Nam được ghi vào sách Kỷ lục Việt Nam năm 2008.

Vào những thập niên đầu của thế kỉ 20, quốc tự Thánh Duyên đã từng là đạo tràng lớn của Giáo hội. Chùa một thời được Chư tôn đức trong sơn môn Tăng già Thừa Thiên dùng làm nơi tu học cho chư tăng vào các mùa An cư kiết hạ. Đến thời kỳ hội An Nam Phật học ra đời, khuôn hội Tịnh độ cũng đã được thành lập tại đây. Bỏ lại đằng sau sự huy hoàng của quá khứ, chùa Thánh Duyên ngày nay đang hòa mình vào đời sống dân dã của làng quê. Chùa vẫn là nơi du khách thập phương vãn cảnh dù đông hay hè, là nơi Phật tử lui tới cúng dường đức Phật và cũng là nơi nuôi dưỡng những tâm hồn trẻ thơ, giúp thế hệ tương lai của đất nước hướng thiện.

Đến chùa vào ngày Rằm, mồng một, các em thanh thiếu niên quây quần bên thầy Thích Minh Chính vui chơi cũng như trong bữa cơm chay đạm bạc. “Nhìn thấy Phật ắt tâm hồn sẽ hướng Phật, để các em vui chơi và sinh hoạt ở chùa giúp các em tránh sa vào các trò chơi không tốt sau giờ học và cũng là phương cách nuôi dưỡng tâm hồn hướng thiện, giúp các em có ích cho cộng đồng, trở thành người tốt khi trưởng thành”, thầy Minh Chính chia sẻ. Bỏ qua sự tĩnh lặng và uy nghiêm của một ngôi quốc tự, Thánh Duyên giờ đây gần gũi với người dân hơn bao giờ hết. Nó không xuất phát bởi vị trí nằm giữa xóm thôn hay là chốn viếng thăm quen thuộc của du khách thập phương mà bởi sự mở lòng vốn có của nhà Phật.

Kiến trúc Chùa Thánh Duyên

Kiến trúc chùa Thánh Duyên hài hòa với địa thế của ngọn núi nơi ngôi chùa tọa lạc. Bia đề tên núi “Thúy Vân sơn” bắt đầu những bậc tam cấp lên chùa. Cổng tam quan dạng cổ lâu đặc trưng chùa Huế có thiết trí thờ Hộ pháp Vi Đà.

Chính điện là tòa nhà ba gian hai chái, cao rộng và thoáng đãng. Phần mái được lợp ngói liệt theo kiểu trùng thiềm điệp ốc đặc trưng của Huế trang trí bằng cù giao, lưỡng long, vân hóa long tinh xảo.

Nội điện thờ Phật cùng nhiều vị hiền thánh thiện thần khác. Gian chính ở giữa thờ Tam Thế Phật: Quá khứ, hiện tại và vị lai; phía trước thấp hơn bàn thờ Phật là bàn thờ bài vị vua Minh Mạng.

Hai bên có hai dãy sập để tôn trí thờ Thập Điện Minh Vương, mỗi bên gần sát vách thờ 5 tượng; tiếp đến vào phía trong thờ 2 dãy tượng Thập Bát La Hán, mỗi bên 9 tượng.

Dãy bên trái có tượng Bồ Đề Đạt Ma tọa thiền, đối diện bên phải là tượng Địa Tạng ngồi trên con sư tử xanh. Phía sau chính điện là nhà tổ, thờ các thế hệ tăng cang và thập phương thiện tín của chùa.

Nằm giữa lưng chừng núi, cách chính điện khoảng chừng 50 mét là Đại Từ Các. Đây cũng là ngôi nhà rường nằm trong tổng thể kiến trúc theo hình thế núi: Chùa, gác, tháp. Sau khi trùng tu, các Đại Từ được chia làm 3 gian: Gian giữa phía trước thờ Phật (A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni và Di Lặc), phía sau là pho tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, gian bên phải thờ đức Quan Âm và gian bên trái thờ Bồ Tát Đại Thế Chí.

Tháp Điều Ngự

Công trình cao nhất nằm trong tổng thể kiến trúc chùa Thánh Duyên là tháp Điều Ngự hình khối tứ giác có 3 tầng, cao khoảng 13 mét. Điều Ngự là một trong mười danh xưng của Đức Phật nhưng Điều Ngự cũng có ý nghĩa là nơi để vua điều phục và chế ngự tâm. Khi tâm đã được chế ngự thì không có việc gì không làm được, đây chính là ý nghĩa của việc vua Minh Mạng cho dựng đình Tiến Sảng phía đằng sau tháp. Trên đỉnh tháp ngày xưa có dựng trụ đồng đặt pháp luân chuyển động theo gió, kèm theo hệ thống chuông lắc. Khi gió thổi pháp luân xoay, âm thanh của tiếng chuông sẽ vang vọng gần xa.